Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa đông xuân, gieo trồng cây hoa màu trên cả nước và thu hoạch cây vụ đông ở miền Bắc. Chăn nuôi lợn tiếp tục đà phục hồi, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. Sản xuất lâm nghiệp tập trung vào các hoạt động hưởng ứng phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp xuân Nhâm Dần cũng như tăng cường công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng trong mùa khô 2022. Ngư dân tích cực ra khơi bám biển phục vụ nhu cầu tiêu dùng Tết Nguyên đán. Người nuôi thủy sản các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long vừa thu hoạch xong vụ lúa – tôm, tập trung cải tạo ao nuôi bắt đầu cho niên vụ mới.

a) Nông nghiệp

Tính đến ngày 15/01/2022, cả nước gieo cấy được 1.909,8 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 104,9% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc đạt 132,1 nghìn ha, bằng 201,5%; các địa phương phía Nam đạt 1.777,7 nghìn ha, bằng 101,3%, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.436,6 nghìn ha, bằng 100,6%.

  Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, đến trung tuần tháng Một, các địa phương trên cả nước gieo trồng được 143,9 nghìn ha ngô, bằng 99,3% cùng kỳ năm trước; 30,9 nghìn ha khoai lang, bằng 91,8%; 3,3 nghìn ha đậu tương, bằng 79,2%; 29,2 nghìn ha lạc, bằng 102,4%; 300,5 nghìn ha rau đậu, bằng 102,1%.

Chăn nuôi bò trong tháng phát triển ổn định. Ước tính tháng Một, tổng số bò cả nước tăng 0,9% so với cùng thời điểm năm trước; tổng số lợn tăng 1,8%; tổng số trâu giảm 2,2%; tổng số gia cầm tăng 1,9%. Tính đến ngày 23/01/2022, cả nước không còn dịch lợn tai xanh và dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng chỉ còn ở Hà Tĩnh; dịch tả lợn châu Phi còn ở 35 địa phương và dịch viêm da nổi cục còn ở Bến Tre chưa qua 21 ngày.

b) Lâm nghiệp

Tháng 01/2022, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước tính đạt 7,3 nghìn ha, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 3,8 triệu cây, tăng 1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 940,5 nghìn m3, tăng 4,5%; sản lượng củi khai thác đạt 1,5 triệu ste, giảm 0,4%. Trong tháng 01/2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 55,7 ha, giảm 51,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 diện tích rừng bị thiệt hại là 114,8 ha) chủ yếu do cháy rừng giảm nhiều, ước tính diện tích rừng bị cháy là 1,8 ha, giảm 97,1%; diện tích rừng bị chặt, phá là 53,9 ha, tăng 3%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng 01/2022 ước tính đạt 589,9 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 321,3 nghìn tấn, tăng 2,5%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 268,6 nghìn tấn, tăng 0,6%, trong đó sản lượng thủy sản khai thác biển ước tính đạt 255,1 nghìn tấn, tăng 0,6%.

2. Sản xuất công nghiệp

Tháng Một là thời điểm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nên chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01/2022 ước tính giảm 3,1% so với tháng trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,8%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 01/2022 ước tính giảm 3,1% so với tháng trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 2,8%, đóng góp 2,6 điểm phần trăm vào mức tăng chung; sản xuất và phân phối điện tăng 5,1%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,2%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 4,6%, làm giảm 0,7 điểm phần trăm.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

Tình hình đăng ký doanh nghiệp trong tháng Một có nhiều khởi sắc khi số doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng và vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cũng tăng khá cao ở tất cả các lĩnh vực hoạt động, đây là tín hiệu khả quan cho phát triển doanh nghiệp trong năm 2022.

Trong tháng 01/2022, cả nước có 13 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký hơn 192,3 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 77,1 nghìn lao động, tăng 15,9% về số doanh nghiệp, tăng 22,6% về vốn đăng ký và tăng 10,5% về số lao động so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, tăng 28,9% về số doanh nghiệp, tăng 24% về số vốn đăng ký và giảm 33,5% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 14,8 tỷ đồng, tăng 5,8% so với tháng trước và giảm 3,7% so với cùng kỳ năm 2021. Nếu tính cả 343,8 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 5,6 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong tháng Một là 536,1 nghìn tỷ đồng, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 19,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 352,8% so với tháng 12/2021 và tăng 194% so với tháng 01/2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tháng 01/2022 lên 32,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 93,6% so với cùng kỳ năm trước.

Cũng trong tháng 01/2022, có gần 29,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 62% so với cùng kỳ năm 2021; có 7.084 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 26,5%; có 2.025 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,3%.

4. Đầu tư

Hoạt động đầu tư trong tháng Một tập trung chủ yếu vào việc phân khai kế hoạch vốn năm 2022, các công trình mới được bố trí vốn năm 2022 đang trong thời gian chuẩn bị hoàn tất các thủ tục, hồ sơ chuẩn bị đầu tư nên khối lượng thực hiện chủ yếu tại các công trình chuyển tiếp. Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 4,8% so với kế hoạch năm và tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2021. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam tháng 01/2022 đạt mức khá (1,61 tỷ USD), tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 01/2022 ước tính đạt 25,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8% kế hoạch năm và tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 bằng 4,6% và tăng 24,9%), bao gồm: Vốn đầu tư thực hiện do Trung ương quản lý đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, bằng 3,4% kế hoạch năm và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư thực hiện do địa phương quản lý đạt 21,9 nghìn tỷ đồng, bằng 5,2% kế hoạch năm và tăng 8,5%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/01/2022 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 2,1 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đăng ký cấp mới có 103 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 388 triệu USD, tăng 119,1% về số dự án và giảm 70,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký điều chỉnh có 71 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 1,27 tỷ USD, tăng 169%; vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 206 lượt với tổng giá trị góp vốn 443,5 triệu USD, tăng 100,9%. Trong đó có 95 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 51,9 triệu USD và 111 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 391,6 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam tháng 01/2022, ước tính đạt 1,61 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong tháng 01/2022 có 15 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 44,2 triệu USD, gấp 13,97 lần so với cùng kỳ năm trước; có 02 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh giảm 7,2 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 36,9 triệu USD, gấp 11,7 lần so với cùng kỳ năm trước.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Trong tháng Một năm 2022, ước tính tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 13% dự toán năm. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 và khôi phục sản xuất vùng bị thiên tai, dịch bệnh.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 01/2022 ước tính đạt 183,5 nghìn tỷ đồng, bằng 13% dự toán năm, trong đó: Thu nội địa đạt 151,3 nghìn tỷ đồng, bằng 12,9% dự toán năm; thu từ dầu thô đạt 3,9 nghìn tỷ đồng, bằng 13,8%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 28,3 nghìn tỷ đồng, bằng 14,2%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước  tháng 01/2022 ước tính đạt 113,9 nghìn tỷ đồng, bằng 6,4% dự toán năm, trong đó: Chi thường xuyên đạt 85,3 nghìn tỷ đồng, bằng 7,7%; chi đầu tư phát triển 12,9 nghìn tỷ đồng, bằng 2,5%; chi trả nợ lãi 15,6 nghìn tỷ đồng, bằng 15%.

6. Hoạt động thương mại, vận tải và du lịch

Tháng Một là tháng cận Tết Nguyên đán nên hoạt động thương mại trong nước, vận tải và du lịch đều tăng so với tháng trước, trong khi đó hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa giảm[2].

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một năm 2022 ước đạt 470,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7% so với tháng trước và tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,3% (cùng kỳ năm 2021 tăng 3,6%).

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 12/2021 đạt 34,59 tỷ USD, cao hơn 75 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 01/2022 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 29 tỷ USD, giảm 16,2% so với tháng trước và tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng Một có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 63,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu tháng 01/2022, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 88,5%, giảm 1,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 7,7%, tăng 0,7 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 2,9%, tăng 0,8 điểm phần trăm; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 0,9%, bằng cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 12/2021 đạt 31,62 tỷ USD, thấp hơn 353 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 01/2022 kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 29,5 tỷ USD, giảm 6,7% so với tháng trước và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 01/2022 có 4 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 46,8% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu tháng 01/2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,7%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,3%, giảm 0,2 điểm phần trăm.

Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 01/2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 10,2 tỷ USD. Tháng 01/2022 xuất siêu sang EU ước đạt 2,1 tỷ USD, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 5 tỷ USD, tăng 11,7%; nhập siêu từ Hàn Quốc 3,8 tỷ USD, tăng 28,9%; nhập siêu từ ASEAN 1,2 tỷ USD, tăng 69,2%; nhập siêu từ Nhật Bản 600 triệu USD (cùng kỳ năm 2021, xuất siêu 58,2 triệu USD).

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 12/2021 xuất siêu 3 tỷ USD[3]; năm 2021 xuất siêu 4,08 tỷ USD; tháng 01/2022 ước tính nhập siêu 500 triệu USD. Trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 1,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 1,3 tỷ USD.

Vận tải hành khách tháng Một ước tính đạt 165,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 15,0% so với tháng trước và giảm 54,0% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 giảm 27,4%); luân chuyển đạt 6 tỷ lượt khách.km, tăng 20,3% và giảm 61,4% (cùng kỳ năm 2021 giảm 34,4%). Vận tải hàng hóa tháng Một ước tính đạt 157,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 3,0% so với tháng trước và giảm 8,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 11,8%) và luân chuyển 32,3 tỷ tấn.km, tăng 1,1% và tăng 1,6% (cùng kỳ năm trước tăng 7,8%)

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Một ước đạt 19,7 nghìn lượt người, tăng 14,9% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt 17,4 nghìn lượt người, chiếm 88% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 56,2% so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt 2,3 nghìn lượt người, chiếm 11,9% và giảm 64,2%; bằng đường biển 10 lượt người, chiếm 0,1% và giảm 76,7%.

7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Tháng 01/2022 là tháng giáp Tết Nguyên đán Nhâm Dần nên nhu cầu mua sắm của người dân tăng cao, giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo quy luật tiêu dùng vào dịp Tết; giá xăng dầu trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới là những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 01/2022 tăng 0,19% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2021, CPI tháng Một tăng 1,94%; lạm phát cơ bản tháng 01/2022 tăng 0,66%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 01/2022 tăng 0,19% so với tháng 12/2021 và tăng 1,94% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản[4] tháng 01/2022 tăng 0,26% so với tháng trước, tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước.

Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới, chỉ số giá vàng tháng 01/2022 tăng 1,08% so với tháng trước; giảm 0,07% so với cùng kỳ năm 2021. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 01/2022 giảm 0,32% so với tháng trước; giảm 0,73% so với cùng kỳ năm 2021.

8. Một số tình hình xã hội

Tháng 01/2022, Nhân dân cả nước chuẩn bị đón Xuân Nhâm Dần trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp. Ngày 08/12/2021, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 11/CT-TW về việc tổ chức Tết Nhâm Dần năm 2022; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 35/CT-TTg ngày 31/12/2021 về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022.

Công tác an sinh xã hội được quan tâm đặc biệt trong dịp Nguyên đán Nhâm Dần, hỗ trợ thiếu đói giáp hạt đầu năm 2022 và các gia đình bị ảnh hưởng mưa lũ, Thủ tướng Chính phủ đã ký các Quyết định xuất cấp gạo không thu tiền từ nguồn dự trữ quốc gia. Cụ thể Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 21/01/2022 xuất cấp 9.877,9 tấn gạo, trong đó: Xuất cấp 6.902,2 tấn gạo để hỗ trợ dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022; Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 21/01/2022 xuất cấp 3.738,5 tấn gạo hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng mưa lũ.

Gói hỗ trợ người dân ảnh hưởng do dịch Covid-19 tiếp tục được triển khai. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, tính đến ngày 21/01/2022, đã hỗ trợ 36,3 nghìn tỷ đồng cho 31,3 triệu lượt người và 378,3 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh.

Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[5]. Tại Việt Nam, công tác phòng, chống dịch Covid-19 tiếp tục được triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, kịp thời chuyển trạng thái sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội. Tính đến 16 giờ ngày 25/01/2022, Việt Nam có 2.187,5 nghìn trường hợp mắc, trong đó 1.924,6 nghìn trường hợp đã được chữa khỏi và 37.165 trường hợp tử vong.

Chiến dịch tiêm vắc-xin phòng Covid-19 của Việt Nam tiếp tục được triển khai thần tốc, an toàn, khoa học, hiệu quả. Tính đến ngày 25/01/2022, tổng số liều vắc-xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 178.818,6 nghìn liều, trong đó tiêm mũi 1 là 78.945,7 nghìn liều; tiêm mũi 2 là 73.967,1 nghìn liều; tiêm mũi 3 (tiêm bổ sung, tiêm nhắc và mũi 3 liều cơ bản) là 25.905,8 nghìn liều.

Trong tháng Một (15/12/2021-14/01/2022), trên địa bàn cả nước xảy ra 963 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 687 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 276 vụ va chạm giao thông, làm 565 người chết; 336 người bị thương và 263 người bị thương nhẹ. Bình quân một ngày trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 9 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 8 người bị thương nhẹ.

Thiên tai xảy ra trong tháng chủ yếu là mưa lớn; sạt lở và bão làm 33,6 nghìn ha lúa và 3,5 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 215 ngôi nhà bị ngập hư hại, thiệt hại ước tính hơn 561,2 tỷ đồng, gấp 14,5 lần cùng kỳ năm 2021.

Trong tháng 01/2022, các cơ quan chức năng đã phát hiện 3.155 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 2.443 vụ với tổng số tiền phạt 26,4 tỷ đồng. Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 153 vụ cháy, nổ, làm 9 người chết và 9 người bị thương, giá trị thiệt hại ước tính gần 24 tỷ đồng./.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ